Đánh bạc là một trong những hành vi vi phạm pháp luật và khi đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Người đánh bạc trước tiên sẽ bị khởi tố và qua quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ ra kết luận điều tra và đề nghị truy tố đối với người vi phạm, chuyển toàn bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố người phạm tội. Đây chính là thời điểm bắt đầu của giai đoạn truy tố. Bên cạnh thời hạn điều tra thì nhiều người cũng thắc mắc thời hạn truy tố với tội đánh bạc sẽ là bao lâu và được xác định như thế nào? Người phạm tội đánh bạc trong giai đoạn truy tố có bị tạm giam không? Và để giải đáp vấn đề này, Luật sư Huế xin giới thiệu tới bạn đọc bài viết “Thời hạn truy tố tội đánh bạc“. Mời bạn đọc cùng tham khảo.
Thế nào là đánh bạc?
Đánh bạc được người dân coi là một trò chơi mang tính đỏ đen. Việc đánh bạc hiện nay diễn ra vô cùng phổ biến, không chỉ bằng các hình thức truyền thống như đánh bài, xóc đĩa, lô đề,…một cách trực tiếp. Hiện nay việc đánh bạc còn có thể thông qua mạng internet với quy mô người chơi vô cùng lớn và nhanh chóng, các đối tượng tạo ra các trang web đánh bạc, quảng cáo để thu hút người chơi đến để kiếm lời.
Với tính nguy hiểm và hậu quả do hành vi đánh bạc để lại không chỉ ảnh hưởng tới tài sản của người chơi mà đây còn là một trong các nguyên nhân dẫn tới hàng loạt các tội phạm khác như trộm cắp, cướp tài sản,… để kiếm tiền chơi đánh bạ. Do đó đánh bạ được coi là hành vi vi phạm pháp luật và tùy mức độ sẽ bị xử lý theo quy định.
Căn cứ Khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới hình bất kỳ thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Các hình thức đánh bạc trái phép thường gặp có thể kể đến như: lô đề, đánh bài tú lơ khơ ăn tiền, xóc đĩa, cá độ bóng đá ăn tiền,…
Tội đánh bạc theo quy định Bộ luật hình sự
Người phạm tội đánh bạc nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể như sau:
Khung 1:
– Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
+ Tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;
+ Tiền hoặc hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc;
+ Tiền hoặc hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Khung 2:
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
+ Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
+ Tái phạm nguy hiểm.
-Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Thời hạn truy tố tội đánh bạc
Truy tố là một giai đoạn của tố tụng hình sự, sau giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án.
Khi kết thúc giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố rồi gửi cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát cùng cấp thực hiện thẩm quyền truy tố.
Truy tố là một trong các giai đoạn tố tụng hình sự nên phải tuân thủ quy định pháp luật về thời hạn. Thời hạn này đảm bảo các cơ quan tiến hành tố tụng cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp thích hợp trong thời hạn quy định để chứng minh bị can bị khởi tố đó có phạm tội không và quyết định truy tố người này ra tòa án bằng bản cáo trạng. Thời hạn truy tố sẽ được xác định bắt đầu từ thời điểm Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của cơ quan điều tra và kết thúc khi Viện kiểm sát ra bản cáo trạng quyết định truy tố bị can ra trước tòa án hoặc ra quyết đinh đình chỉ/tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra yêu cầu điều tra bổ sung.
Về thời hạn truy tố theo Khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự quy định như sau:
“Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Theo đó thời hạn truy tố là 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; và có thể gia hạn thêm không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định tại Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
-Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
-Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
-Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
-Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Với tội đánh bạc thì tùy từng trường hợp rơi vào khung nào của Điều 321 Bộ luật hình sự thì có thể bị tạm giam với thời hạn tương ứng. Cụ thể:
-Khung 1: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
-Khung 2: phạt tù từ 03 năm đến 07 năm
Với hai khung hình phạt này đối chiếu với Điều 9 Bộ luật Hình sự thì tội đánh bạc là tội ít nghiêm trọng nếu thuộc khung 1 và là tội nghiêm trọng nếu thuộc khung 2 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Do đó thời hạn truy tố với tội đánh bạc là 20 ngày và có thể gia hạn thêm không quá 10 ngày trường hợp xét thấy cần thiết.
Tội đánh bạc bị tạm giam bao lâu trong giai đoạn truy tố?
Theo Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì: “Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 240 của Bộ luật này.”
Do đó người phạm tội đánh bạc thuộc tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nên có thể bị tạm giam trong giai đoạn truy tố đến 20 ngày và có thể gia hạn thêm không quá 10 ngày, vậy tối đa thời hạn tạm giam sẽ là 30 ngày.
Tuy nhiên cần chú ý rằng người đánh bạc chỉ bị tạm giam khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau theo Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Khuyến nghị
Với phương châm “Đưa luật sư đến ngay tầm tay bạn”, Luật sư Huế sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý tới quý khách hàng. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý chuyên nghiệp, chúng tôi sẽ hỗ trợ khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào.
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Thời hạn truy tố tội đánh bạc” của Luật Sư Huế. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý như dịch vụ cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Mời bạn xem thêm
- hồ sơ giảm trừ gia cảnh cho con
- Dịch vụ nhận cha mẹ con có yếu tố nước ngoài tại Huế trọn gói năm 2023
- Dịch vụ ly hôn khi vợ ở nước ngoài của Luật sư Huế
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn điều tra như sau:
“1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng….”
Theo đó do tội đánh bạc có thể là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nên thời hạn điều tra tối đa đối với tội đánh bạc là 4 tháng trong trường hợp rơi vào khung 1 Điều 321 BLHS và 8 tháng trường hợp ở khung 2 Điều 321 BLHS.
– Căn cứ Khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP quy định về hành vi đánh bạc trái phép thì số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc bao gồm:
+ Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
+ Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
+ Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.