Việc công nhận hay không công nhận hôn nhân đồng giới vẫn luôn là vẫn đề gay tranh cãi giữa các cộng đồng ủng hộ và không ủng hộ việc này. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã coi việc kết hôn đồng giới là hợp pháp và được thừa nhận nhưng một số quốc gia thậm chí còn coi đây là tội phạm. Vậy với Việt Nam quan điểm về hôn nhân đồng giới như thế nào? Liệu họ có được chấp nhận hay cũng bị coi là việc vi phạm pháp luật? Để làm rõ vấn đề này, Luật sư Huế xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết “Hôn nhân đồng giới ở Việt Nam có được công nhận?“. Mời bạn đọc cùng tham khảo.
Căn cứ pháp lý
- Luật hôn nhân gia đình 2014
Thế nào là hôn nhân đồng giới?
Hôn nhân đồng giới hay hôn nhân đồng tính là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học.
Hôn nhân đồng giới là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học, đồng cảm, chia sẻ với nhau những khó khăn trong cuộc sống. Những người cùng giới tính họ cũng mong ước giống như người bình thường đó là được chung sống trong một gia đình với người mình yêu, được quan tâm, chăm sóc, do đó dẫn đến tình trạng kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Hôn nhân đồng giới có khi còn được gọi là “hôn nhân bình đẳng” hay “bình đẳng hôn nhân”, thuật ngữ này thường được sử dụng phổ biến từ những người ủng hộ việc kết hôn giữa những người có cùng giới tính. Việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới sẽ phụ thuộc vào quan niệm của các nước khác nhau trên thế giới.
Hiện nay cộng đồng những người ủng hộ hôn nhân đồng giới đang kêu gọi các quốc gia công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới giống như giữa những cặp đôi khác giới khác.
Hôn nhân đồng giới ở Việt Nam có được công nhận?
Theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014 về Điều kiện kết hôn như sau:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”
Theo quy định trên có thể thấy nhà nước Việt Nam không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính hay hôn nhân đồng tính.
Đối với quan niệm của Việt Nam xuất phát từ nhiều quan điểm truyền thống của nhiều người nên không chấp nhận người đồng tính. Mặc dù trong xã hội hiện nay có cái nhìn tích cực hơn về người đồng tính nhưng vẫn chưa ủng hộ họ có quyền đầy đủ như người dị tính.
Người đồng tính với những đặc điểm riêng về sự hấp dẫn tình dục, quan hệ tình cảm là đối tượng thường xuyên chịu những tác động tiêu cực từ những phân biệt đối xử, định kiến và kỳ thị dựa trên xu hướng tình dục đặc biệt của mình. Nhu cầu thay đổi quan niệm về gia đình và kết hôn ở Việt Nam là chính đáng. Nhiều người quan niệm hôn nhân cùng giới có thể làm xói mòn giá trị của hôn nhân truyền thống.
Kết hôn đồng giới có vi phạm pháp luật?
Trước đây, nếu theo Luật hôn nhân và gia đình 2000 thì việc kết hôn giữa những người đồng giới bị cấm. Tuy nhiên hiện nay theo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 thì chỉ quy định rằng “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính“. Do đó việc kết hôn giữa những người cùng giới khôn còn bị coi là vi phạm pháp luật như quy định trước tuy nhiên vẫn không được hợp pháp hoá công nhận.
Theo Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thì những người đồng giới kết hôn với nhau không còn bị phạt. Như vậy, so với quy định trước đây, hiện nay, Nhà nước không còn cấm những người có cùng giới tính kết hôn mà chỉ “không thừa nhận” mối quan hệ hôn nhân này. Đồng nghĩa, những người đồng tính có thể tổ chức đám cưới, sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không được thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn (làm tờ khai đăng ký kết hôn, ký vào giấy chứng nhận kết hôn) tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Như vậy nghĩa là Nhà nước không cấm nhưng cũng không thừa nhận việc kết hôn này.
Giải quyết tranh chấp xảy ra giữa những người đồng giới kết hôn?
Khi những người cùng giới tính chung sống với nhau sẽ phát sinh nhiều vấn đề pháp lý khó tránh khỏi mà điển hình đó là tranh chấp về tài sản chung và tranh chấp về nuôi con chung (đối với trường hợp nhận con nuôi) khi các bên chia tay. Tài sản có thể phát sinh từ các giao dịch mà hai người cùng thực hiện hoặc sáp nhập tài sản riêng của mỗi người vào khối tài sản chung hoặc chỉ đơn thuần là sự thỏa thuận của họ về một tài sản nào đó được nhập vào khối tài sản chung.
Tuy nhiên, vì không được pháp luật công nhận và bảo vệ nên khi phát sinh tranh chấp thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì không được Nhà nước thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên không áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết khi có tranh chấp.
Do đó đối với tranh chấp về tài sản chung sẽ căn cứ theo quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết.
Đối với tranh chấp về con chung thì không căn cứ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Lúc này thì hai người đồng giới có quyền yêu cầu Tòa án không công nhận mình là vợ chồng hay không? Trong thực tiễn giải quyết vụ việc tại Tòa án mà có phát sinh tranh chấp giữa hai người đồng tính thì phải giải quyết như thế nào, trong khi hiện nay vẫn chưa có một văn bản hay hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề kết hôn giữa hai người đồng giới và giải quyết khi phát sinh tranh chấp.
Nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người đồng giới kết hôn, cần sớm ban hành một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hình thức kết hợp dân sự giữa những người đồng giới theo hướng dự liệu những vấn đề như: tài sản chung phát sinh trong thời kỳ chung sống giữa hai người đồng giới. Khi họ không chung sống nữa, khối tài sản đã tạo lập trong thời gian đã chung sống sẽ phân chia thế nào? Vấn đề hai người đồng giới cùng nhận con nuôi thì cả hai có được cùng đứng tên là bố, hoặc cùng đứng tên là mẹ nuôi của đứa trẻ không? Vấn đề khi một người qua đời mà không để lại di chúc thì người kia có quyền hưởng thừa kế tài sản như quyền thừa kế của vợ, chồng hay không? Rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để có những điều chỉnh phù hợp.
Những quốc gia nào trên thế giới đã công nhận hôn nhân đồng giới ?
Hôn nhân đồng giới có thể được thực hiện một cách đơn giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín ngưỡng trên thế giới đã cho phép hai người cùng giới kết hôn hoặc thực hiện hôn lễ cùng giới, ví dụ như: Phật giáo ở Đài Loan, Úc, Nhà thờ ở Thụy Điển, Giáo hội Presbyterian, Do Thái giáo bảo thủ, Giáo hội Thống Nhất Canada..
Trước khi công nhận hôn nhân đồng giới, nhiều nước đã có luật cho các cặp đồng tính đăng ký sống chung gọi là kết hợp dân sự, quy định quyền lợi và bổn phận của họ như Đan Mạch từ năm 1989, Na Uy năm 1993.
Năm 2019, trong số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã có 28 quốc gia/vùng lãnh thổ chính thức công nhận hôn nhân đồng giới, bao gồm: Áo Argentina, Bỉ, Bồ Đào Nha, Brasil, Canada, Colombia, Đan Mạch, Đài Loan, Đức, Ecuador, Hà Lan, Hoa Kỳ, Iceland, Ireland, Luxembourg, Malta, Mexico (chỉ một số bang), Na Uy, Nam Phi, New Zealand (trừ Niue, Tokelau và Quần đảo Cook), Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Úc, Uruguay, Vương quốc Anh (trừ Bắc Ireland).
Tuy nhiên hiện tại vẫn có hơn 80 quốc gia/vùng lãnh thổ coi hành vi đồng tính luyến ái là tội phạm, một số còn áp dụng hình phạt tử hình đối với những người có hành vi đồng tính luyến ái. Số quốc gia/vùng lãnh thổ còn lai có chính sách trung dung, không coi đồng tính luyến ái là bất hợp pháp nhưng cũng không công nhận hôn nhân đồng tính.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư Huế về nội dung vấn đề ”Hôn nhân đồng giới ở Việt Nam có được công nhận?”. Mong rằng các kiến thức trên sẽ giúp ích cho bạn trong công việc và cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn về dịch vụ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, dịch vụ giải thể công ty, mã số thuế cá nhân, xác nhận tình trạng hôn nhân, đổi tên giấy khai sinh, nguyên tắc thanh lý hợp đồng…. Hãy liên hệ ngay tới Luật sư Huế để được tư vấn, hỗ trợ một cách nhanh nhất. Mời liên hệ hotline: 0833102102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Dịch vụ tư vấn, soạn thảo hợp đồng đặt cọc mua nhà tại Huế năm 2022
- Dịch vụ nhận nuôi con nuôi tại Huế nhanh chóng, trọn gói năm 2022
- Dịch vụ đăng ký khai sinh không có chứng sinh tại Huế năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Điều 36: Quyền xác định lại giới tính
1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh; hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính.
2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền; nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được xác định lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.“
Như vậy, việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Căn cứ theo Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và Luật khác có liên quan.
Như vậy, cá nhân phải đăng ký thay đổi hộ tịch sau khi thực hiện chuyển đổi giới tính. Sau khi thay đổi hộ tịch, người đã chuyển giới sẽ có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi. Một trong số các quyền nhân thân đó chính là quyền đăng ký kết hôn.
Do đó, sau khi chuyển giới, đăng ký thay đổi hộ tịch thì những người chuyển giới được quyền đăng ký kết hôn với người khác giới tính đã chuyển và quan hệ hôn nhân này sẽ được pháp luật công nhận, hai người trên danh nghĩa vợ chồng sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng như theo quy định tại Luật Hôn nhân gia đình.