Bản quyền, vi phạm bản quyền, ăn cắp bản quyền là một trong những từ ngữ thường được nghe khi nhắc tới vấn đề tác phẩm. Việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày này càng diễn ra nhiều hơn khi mà công nghệ thông tin phát triển, hàng loạt các tác phẩm bị đăng tải trái phép trên các trang mạng mà chưa được phép của người sở hữu, của tác giả. Vậy như thế nào được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả? Ăn cắp bản quyền của người khác sẽ bị xử lý như thế nào? Trường hợp này được sử dụng tác phẩm không cần xin phép mà không vi phạm bản quyền? Để làm rõ các vấn đề này, Luật sư Huế xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết “Tội ăn cắp bản quyền bị xử lý như thế nào?“. Mời bạn đọc cùng tham khảo để hiểu rõ hơn về các quy định liên quan đến vấn đề này nhé.
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
- Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2022
Bản quyền là gì?
Trong luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2022 không có quy định nào về khái niệm “bản quyền”.
Bản quyền còn gọi là quyền tác giả hiểu đơn giản là thuật ngữ pháp lý được sử dụng để miêu tả quyền tác giả đối với tác phẩm do họ sáng tạo ra hoặc sở hữu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các tác phẩm sau được bảo hộ quyền tác giả:
- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói của người khác;
- Tác phẩm báo chí;
- Tác phẩm âm nhạc;
- Tác phẩm sân khấu;
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra bằng phương pháp tương tự;
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
- Tác phẩm nhiếp ảnh;
- Tác phẩm kiến trúc;
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Quyền tác giả tự động hình thành từ thời điểm tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể tác phẩm đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Bảo vệ bản quyền là tác giả, chủ bản quyền có thể kiểm soát việc sử dụng nhất định đối với tác phẩm của mình. Quan trọng nhất của bảo vệ bản quyền là cung cấp cho chủ bản quyền quyền kiểm soát việc sao chép nội dung tác phẩm của họ, điều chỉnh và truyền tải nội dung. Bản chất độc quyền của bàn quyền được hiểu là chỉ tác giả mới có thể quyết định ai tham gia vào hoạt động liên quan đến nội dung của họ.
Tội ăn cắp bản quyền bị xử lý như thế nào?
Trong pháp luật hình sự hiện nay không có quy định nào về tội ăn cắp bản quyền. Ăn cắp bản quyền là từ ngữ mà người dân quen gọi đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả khi mà người khác sử dụng tác phẩm mà không được chủ sở hữu cho phép. Theo pháp luật về sở hữu trí tuệ thì các hành vi xâm phạm quyền tác giả bao gồm:
- Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
- Mạo danh tác giả.
- Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
- Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
- Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005.
- Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005.
- Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005.
- Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
- Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
- Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
- Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
- Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
Theo đó khi cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm trên thì bị coi là xâm phạm quyền tác giả và sẽ bị xử lý tùy thuộc vào tính chất và hậu quả của hành vi vi phạm. Và nếu đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người vi phạm có thể bị xử phạt về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
Theo Khoản 1 Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan như sau:
“1.Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.”
Để hiểu rõ hơn về tội phạm này ta cùng đi tìm hiểu các vấn đề sau:
Cấu thành tội phạm
Tội xâm phạm quyền tác giả được tạo bởi 4 yếu tố cấu thành tội phạm sau:
– Mặt khách quan của tội phạm này có các dấu hiệu:
+ Về hành vi: Có một trong các hành vi sau:
- Có hành vi sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình (như dùng tác phẩm đã là cuốn sách đã được xuất bản phôtô ra thành nhiều bản khác…) một cách cố ý để thu lợi.
Sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử.
- Có hành vi phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao ghi âm hoặc bản sao ghi hình (như phân phối đĩa chương trình ca nhạc đã được in sao từ đĩa chương trình ca nhạc được công bố ra công chúng) một cách cố ý để thu lợi.
+ Các dấu hiệu khác: có một trong các dấu hiệu sau đây:
- Các hành vi nêu trên phải đạt mức độ với quy mô thương mại.
- Thu lợi bất chính tối thiểu là 50.000.000 đồng.
- Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan tối thiểu là là 100.000.000 đồng.
- Hàng hóa vi phạm có trị giá tối thiểu là 100.000.000 đồng
– Khách thể:
Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật bảo vệ.
– Mặt khách quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Họ nhận thức được hành vi này là sai trái nhưng vẫn cố tình thực hiện với một mục đích nào đó.
– Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Hình phạt
– Đối với cá nhân:
+ Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
+ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
+ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
– Đối với pháp nhân thương mại:
+ Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
+ Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
+ Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Trong trường hợp nào được sử dụng tác phẩm mà không cần sự đồng ý của tác giả?
Trước hết, các tác phẩm được sử dụng mà không phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm là những tác phẩm đã được công bố. Và theo Luật sở hữu trí tuệ thì các trường hợp sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép là: Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao và Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Cụ thể:
Trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
Tại khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ quy định về trường hợp này bao gồm:
“a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.”
Việc người dùng muốn sử dụng tác phẩm cho các trường hợp trên thì sẽ không phải xin phép hay phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu. Tuy nhiên, việc sao chép thì chỉ được sao chép MỘT bản cho các mục đích về nghiên cứu, giảng dạy. Và không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Bên cạnh đó, khi sử dụng tác phẩm phải đảm bảo sẽ không làm ảnh hưởng đến các hoạt động khai thác tác phẩm, không gây phương hại đến quyền của tác giả, cũng như chủ sở hữu quyền tác giả. Đồng thời phải thông tin về tên tác giả, nguồn gốc và xuất xứ của tác phẩm khi sử dụng.
Trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
– Sử dụng có mục đích lợi nhuận:
Trong trường hợp này thì khi cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm có nhằm mục đích lợi nhuận thì phải trả tiền nhuận bút, thù lao dù không phải xin phép:
“Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.”
– Sử dụng không có mục đích lợi nhuận:
Tuy nhiên, vẫn có trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng nhưng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng vẫn phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Và các trường hợp trên phải trả tiền nhuận bút, thù lao sẽ không được áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.
Cũng như để đảm bảo các quyền tác giả thì khi sử dụng người dùng không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Khuyến nghị
Khi đối diện các vướng mắc có nguy cơ thiệt hại về tài sản, tinh thần hiện hữu trước mắt, quý khách hàng hãy liên hệ ngay với Luật sư Huế để chúng tôi kịp thời đưa ra các biện pháp phù hợp, giúp quý khách giải quyết vấn đề thuận lợi.
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Tội ăn cắp bản quyền bị xử lý như thế nào?”. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật Sư Huế với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như dịch vụ Đổi tên mẹ trong giấy khai sinh. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833102102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Dịch vụ tư vấn thủ tục gia hạn thời hạn sử dụng đất tại Huế năm 2023
- Dịch vụ nhận nuôi con nuôi tại Huế nhanh chóng, trọn gói năm 2023
- Dịch vụ đăng ký bảo hộ thương hiệu tại Huế uy tín năm 2023
Câu hỏi thường gặp
Tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:
– Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
– Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
– Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
– Buộc bồi thường thiệt hại;
– Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Theo đó khi khởi kiện về hành vi xâm phạm quyền tác giả bạn có thể yêu cầu tòa án buộc những người xâm phạm bản quyền thực hiện các trách nhiệm trên.
Theo Điều 13 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định:
1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 của Luật này.
2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Như vậy có thể thấy bản quyền của tác phẩm lúc này sẽ thuộc về cả người sáng tác và người thuê người khác sáng tác. Với mỗi chủ thể sẽ có các quyền tương ứng với tác phẩm khác nhau. Trong đó các quyền nhân thân sẽ thuộc về người sáng tác trừ quyền công bố, cho người khác công bố tác phẩm, các quyền tài sản thì thuộc người thuê sáng tác.